VAI TRÒ CỦA THỂ CHẾ TRONG THÚC ĐẨY HIỆU QUẢ THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM

Nguyễn Thị Hồng1, Nguyễn Khánh Doanh1,
1 Trường Đại học Kinh tế, Đại học Phenikaa

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của chất lượng thể chế và mức độ tương đồng thể chế đến hiệu quả xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2002 - 2022. Dựa trên dữ liệu xuất khẩu của Việt Nam sang các đối tác thương mại, nghiên cứu sử dụng phân tích biên ngẫu nhiên (Stochastic Frontier Analysis - SFA) để ước lượng hiệu quả xuất khẩu, và phương pháp GMM hệ thống (sys-GMM) để kiểm định tác động của các yếu tố thể chế đến hiệu quả xuất khẩu. Kết quả cho thấy cả chất lượng thể chế trong nước và sự tương đồng thể chế với đối tác đều có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả xuất khẩu. Kết quả phân tích theo khu vực cũng chỉ ra sự khác biệt đáng kể. Theo đó, tại Châu Á, hiệu quả xuất khẩu còn thấp dù mức tương đồng cao. Ở thị trường các nước Châu Âu, việc hài hòa quy định là yếu tố then chốt để khai thác hiệu quả tiềm năng xuất khẩu. Tại Châu Mỹ, cả cải cách thể chế nội tại và tăng cường tương thích thể chế đều giữ vai trò quan trọng. Những phát hiện này gợi mở hàm ý rằng cải cách thể chế cần được thiết kế linh hoạt, có tính khu vực hóa và phù hợp với đặc điểm của từng thị trường xuất khẩu mục tiêu.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

[1] N. K. Doanh, L. T. Truong, Y. Heo (2020), Impact of institutional and cultural distances on ASEAN's trade efficiency, Journal of Economic Studies, 49(1):77-94, doi: 10.1108/jes-07-2020-0343.
[2] T. N. Doan, Y. Xing (2018), Trade efficiency, free trade agreements and rules of origin, Journal of Asian Economics, (55):33-41, doi: 10.1016/j.asieco.2017.12.007.
[3] M. M. Stack, E. J. Pentecost, and G. Ravishanka (2018), A Stochastic Frontier Analysis of Trade Efficiency for the New EU Member States: Implications of Brexit, Economic Issues, (23):35-53.
[4] J. R. Lott, D. C. North (1992), Institutions, Institutional Change and Economic Performance, Journal of Policy Analysis and Management, 11(1), doi: 10.2307/3325144.
[5] O. E. Williamson (2000), The New Institutional Economics: Taking Stock, Looking Ahead, Journal of Economic Literature, 38(3):595-613, doi: 10.1257/jel.38.3.595.
[6] D. Kaufmann, A. Kraay, M. Mastruzzi (2011), The Worldwide Governance Indicators: Methodology and Analytical Issues, Hague Journal on the Rule of Law, 3(02):220-246, doi: 10.1017/s1876404511200046.
[7] N. T. H. Hai D. N. Thang (2017), The ASEAN Free Trade Agreement and Vietnam’s Trade Efficiency, Asian Social Science, 13(4), doi:10.5539/ass. v13n4p192.
[8] S. P. Armstrong (2007), Measuring Trade and Trade Potential: A Survey, SSRN Electronic Journal, doi: 10.2139/ssrn.1760426.
[9] S. Abbas, A. Waheed (2019), Pakistan’s Global Trade Potential: A Gravity Model Approach, Global Business Review, 20(6):1361-1371, doi:10.1177/0972150 919848936.
[10] G. E. Battese, T. J. Coelli (1988), Prediction of firm-level technical efficiencies with a generalized frontier production function and panel data, Journal of Econometrics, 38(3):387-399, doi:10.1016/0304-4076(88)90053-x.
[11] R. Blundell, S. Bond (1998), Initial conditions and moment restrictions in dynamic panel data models, Journal of Econometrics, 87(1):115-143, doi:10.1016/s0304-4076(98)00009-8.
[12] A. Liu, C. Lu, Z. Wang (2020), The roles of cultural and institutional distance in international trade: Evidence from China's trade with the Belt and Road countries, China Economic Review, (61), doi: 10.1016/j.chieco.2018.10.001.
[13] H. L. F. De Groot, G. J. Linders, P. Rietveld, U. Subramanian (2004), The Institutional Determinants of Bilateral Trade Patterns, Kyklos, 57(1):103-123, doi: 10.1111/j.0023-5962.2004.00245.x.